Giới thiệu về Bát Quái Chưởng
Bát Quái Chưởng là một trong những loại quyền thuật sử dụng các chiêu thuật công, phòng và phương pháp dẫn đạo dung hợp với bộ pháp di chuyển theo đường tròn. Tên gọi cũ của Bát Quái Chưởng là “chuyển chưởng” (Chưởng xoay), ngoài ra Bát Quái Chưởng còn mang tên là “ Bát quái chuyển chưởng” (chưởng xoay bát quái), “Du thân bát quái chưởng” (Bát quái chưởng đưa mình), “Nhu thân Bát quái chưởng” (Bát quái chưởng mềm thân), “Âm dương Bát quái chưởng”(Bát quái chưởng âm dương), “Bát quái liên hoàn chưởng” (Chưởng liên hoàn bát quái). Trên thực tế, bộ pháp của Bát quái chưởng chú trọng đến ngang dọc khác nhau, nối liền tám phương vị trong Bát quái. Bát quái tán thủ chú trọng đến nguyên tắc “tùy cơ ứng biến”, gặp thời cơ thì đánh, hợp với Chu Dịch “cứng mềm mài nhau, bát quái vẫy động”, nghĩa là luôn vận động, biến hóa không ngừng, do đó mới gọi là Bát Quái Chưởng.
Về nguồn gốc của Bát Quái Chưởng thì cũng có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng do đạo nhân Bích Vân, Thanh Vân ở núi Nga Mi (Tứ Xuyên) truyền dạy. Cũng có thuyết cho rằng tiền thân của Bát Quái Chưởng là “Âm dương bát quái chưởng” từng được lưu truyền tại vùng Giang Nam. Có người lại suy đoán từ “Lam di ngoại sử-Tỉnh biên ký” có ghi : “Gia Ngưỡng làm vua từ 1796-1821, có người ở Tế Ninh tỉnh Sơn Đông là Vương Tương dạy Mã Khắc Thiện quyền pháp” mà quyền đó là tiền thân của Bát Quái Chưởng. Căn cứ theo các kết quả khảo chứng vào cuối thời nhà Thanh thì kết luận một cách chính xác là: Bát Quái Chưởng do Đổng Hải Xuyên, người thành Châu Gia - Văn Anh, tỉnh Hà Bắc (TQ) sáng lập ra. Hệ quyền của Đổng Hải Xuyên cực giống thuật đạo dẫn chạy theo đường tròn của Đạo giáo kết hợp với phương pháp công phòng trong võ thuật, đồng thời dùng Dịch lý để làm lý luận cơ bản, đó là “lấy động làm gốc, lấy biến làm phép”.
Năm 1866, sau khi Đổng Hải Xuyên lập ra Bát Quái Chưởng, ông liên tục truyền dạy tại Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc. Từ đó đến nay qua bao thế hệ, Bát Quái Chưởng không ngừng hoàn thiện và phát triển một cách nhanh chóng về lý luận kỹ thuật, phương pháp…
Đặc điểm vận động của Bát Quái Chưởng là thân nhanh bước linh, tùy bước tùy biến. Khi giao đấu thì nhô, cúi, vặn , xoay mau lẹ đa biến. Quyền phổ ghi là: “Hình như rồng lượn, nhìn như vượn dữ, ngồi như hổ phục, chuyển như ưng liệng”. Bát Quái Chưởng lấy trạm trang và bộ bước làm cơ bản công, lấy bước xoay chạy vòng tròn làm hình thức vận động cơ bản. Đường di chuyển của vết chân bước, xoay được chia ra theo hình cá Âm Dương, theo các phương vị Bát quái. Về thân pháp, yêu cầu vươn thân, cổ thẳng, đứng hông hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, háng co, nâng bụng dưới…thân pháp coi trọng vặn, xoay , chuyển, lật tròn vòng, không ngắc ngứ, Bộ pháp đòi hỏi khi lên xuống phải vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước vòng tròn, chân trong tiến thẳng, chân ngoài khép vào trong, hai gối hướng vào nhau, không mở hạ bộ. Về mặt thủ pháp, chủ yếu có đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, chặn, cắt, khép, bắt, tóm, móc , đánh, …yêu cầu là có thể tiến thoái, có thể hóa giải, kết hợp với hư thực mà biến hóa khôn cùng. Mục đích là dĩ tĩnh chế động, né thẳng đánh chéo khi giao đấu. Mỗi chưởng khi đánh ra đều phải dùng hông eo làm trục để xoay, toàn thân là một thể thống nhất, nội ngoại tương hợp, đó là ngoài thì chú trọng đến thủ, nhãn, thân và bộ pháp, trong thì luyện tâm, ý, khí, thần và lực.
Thường thì khi luyện Bát Quái Chưởng thì chia làm ba bước kung fu, đó là: định giá tử (luyện tập giá thức, tư thế), hoạt giá tử (vận dụng, kết hợp thủ pháp, bộ pháp, các tư thế lại với nhau) và biến hóa (tử).
Định giá tử là cơ bản, yêu cầu mỗi chiêu môi thức phải thật qui củ, quen chậm chứ không quen nhanh, cốt sao tư thế chính xác, bộ pháp kiên cố, bước đi vững vàng, thiết thực, đạt được chín yêu cầu ban đầu là:
- Tạ (xệ, xệ hông)
- Khấu (khép, khép ngực)
- Đế (nâng lên, nâng huyệt Vỹ lư, nâng trong Cốc đạo. Vỹ lư là huyệt nằm dưới thắt lưng, trên xương cùng, nơi tập trung nội lực. Cốc đạo là đường tiêu hóa kể từ hậu môn lên).
- Đỉnh (đẩy lên, hướng đầu lên)
- Khỏa (quấn tròn, cuộn tay)
- Tùng (thả lỏng, buông lỏng)
- Thùy (xuôi, xuôi khuỷu tay)
- Xúc (co, co khớp hang, bả vai)
- Khởi toản lạc phan, tuyệt đối không ưỡn ngực, phưỡn bụng
Hoạt giá tử chủ yếu luyện tập các động tác, phối hợp với các yếu lĩnh cơ bản kể trên trong khi di chuyển bộ pháp, biến hóa phương vị, cốt trở nên thành thạo, thuần thục.Các động tác khi di chuyển phải đạt yêu cầu nội ngoại thống nhất, ý dẫn thân tùy, biến đổi tự nhiên, sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như chớp, vững như bàn thạch.
Nội dung cơ bản của Bát Quái Chưởng là Bát mẫu chưởng (tám chưởng mẹ), hay còn gọi là Lão bát chưởng, tuy vậy tùy từng nơi mà nội dung truyền dạy có sự khác biệt nhất định.Đó là lấy tám hình đại diện là Sư (sư tử), Lộc (hươu), Xà (rắn), Điêu (diều hâu), Long (rồng), Phụng (phượng), Hầu (khỉ), Hùng (gấu).Đồng thời dùng cả Song chàng chưởng (chưởng đâm bằng hai tay), Dao thân chưởng (chưởng lắc thân), Xuyên chưởng (chưởng xuyên), Khiêu chưởng (chưởng khều)….làm nội dung cơ bản của tám chưởng. Tuy vậy mỗi chưởng kể trên lại biến hóa ra nhiều chưởng pháp, theo kiểu cứ một chưởng lại sinh ra tám chưởng, tổng cộng 8x8 thành 64 chưởng.
Bát Quái Chưởng có đơn luyện , đối luyện và tán đả đấu lôi đài.Căn cứ theo quyền phổ cũ ghi lại thì hệ quyền của Bát Quái Chưởng thường có 18 đường La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 triệt thoái (chặt chân). Hệ thống binh khí của Bát Quái Chưởng gồm có : Tý ngọ uyên ương việt (búa uyên ương Tý Ngọ), Kê trảo âm dương nhuệ (vuốt chân gà âm dương), Phong hỏa luân (bánh xe gió lửa), Phán quan bút…là các loại song binh khí, ngắn và nhỏ, ngoài ra còn có các khí giới dài và nặng hơn là bát quái đao, bát quái thương, bát quái kiếm.
Hiện nay Bát Quái Chưởng chủ yếu được lưu truyền rộng rãi tại các tỉnh thành thuộc miền bắc Trung Quốc với hai hệ phái chính là Bát Quái Chưởng họ Trình (Trình thức Bát Quái Chưởng) và Bát Quái Chưởng họ Lương (Lương thức Bát Quái Chưởng).
Sưu tầm